Nhắc đến Hàn Quốc là nhắc đến những đặc trưng nổi bật dưới đây.
1. Hanbok ( 한복 )
Áo hanbok của phụ nữ gồm có một váy dài “china” và một áo vét theo kiểu bôlêrô “Jeogori”. Áo của đàn ông gồm có một áo khoác ngắn “Jeogori” và quần “baji”. Cả hai bộ hanbok này đều có thể mặc với một áo choàng dài theo kiểu tương tự gọi là “durumagi” . Ngày nay, người Hàn Quốc chủ yếu mặc Hanbok vào các dịp lễ tết hoặc các lễ kỉ niệm như ngày cưới hoặc tang lễ.
2. Kimchi ( 김치 ) và Bulgogi ( 불고기 ) – Thực phẩm có lợi cho sức khỏe
Bulgogi, có nghĩa là thịt nướng, là món ăn phổ biến của người Hàn Quốc và kimchi- món rau cải thảo muối có vị cay. Bulgogi được làm từ bất kì loại thịt nào, mặc dù thịt bò và thịt lợn là loại thịt thường được dùng nhiều nhất. Gia vị là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của món của bulgogi cũng như kimchi.
Kimchi có thể được làm từ nhiều loại rau khác nhau, trong đó được sử dụng nhiều nhất là cải thảo và củ cải. Các loại rau được ngâm nước muối và rửa sạch. Sau khi để ráo nước, người ta trộn gia vị vào cải thảo và củ cải. Kimchi cung cấp ít calo và cholesterol nhưng lại giàu chất xơ. Kimchi thậm chí còn cung cấp nhiều vitamin hơn cả táo. Vì vậy, người ta thờng nói rằng “ăn kimchi mỗi ngày khỏi cần đến bác sĩ “.
3. Hangeul ( 한글 ) – Bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc
Bảng chữ cái Hangeul được xây dựng từ thế kỉ 15 bởi vị vua anh minh triều đại Joseon – vua Sejong. Bảng chữ cái gồm 14 phụ âm và 10 nguyên âm. Sự kết hợp giữa phụ âm và nguyên âm hình thành nên âm tiết, do vậy bảng chữ Hangeul có thể tạo thàng hàng nghìn chữ và thể hiện bất kì âm điệu nào. Vì tương đối đơn giản và có số lượng giới hạn, Hangeul rất dễ học. Nạn mù chữ hầu như không tồn tại ở Hàn Quốc nhờ bảng chữ cái dễ sử dụng này.
4. Jongmyo Jeryeak ( 종묘제례악 ) – Nhạc tế lễ Jongmyo
Vào ngày Chủ nhật đầu tiên của thángNăm trong năm, hậu duệ của dòng tộc Jeonju Yi, hoàng tộc thười Joseon (1392-1910), làm lễ thờ cúng tổ tiên tại đền Jongmyo ở trung tâm Seoul. Mặc dù nghi lễ này được cử hành theo một nghi thức ngắn gọn rất nhiều so với trước, nhưng có tới 19 loại nhạc cụ cổ điển, bao gồm chùm chuông đá, chuông đồng, các loại trống, hòa nên âm thanh đặc biệt cho buổi lễ truyền thống.
5. Talchum ( 탈춤 ) – Mặt nạ và múa mặt nạ
Mặt nạ, thường được gọi là “tal” trong tiếng Hàn Quốc, được làm từ giấy, gỗ, quả bầu khô, và lông. Hầu hết các loại mặt nạ đều phản ánh sắc thái và cấu trúc xương của gương mặt người Hàn nhưng cũng có một số loại mặt nạ thể hiện khuôn mặt của các vị thần và con vật, bao gồm cả tả thực và tưởng tượng. Hình dáng của các loại mặt nạ thường kì lạ và đã được cách điệu, vì “talchum ” – loại hình múa mặt nạ -thường được biểu diễn vào đêm dưới ánh sáng của các đống lửa.
Múa mặt nạ về cơ bản là loại hình nghệ thuật dân gian phát triển tự nhiên trong nhân dân thời kỳ Joseon, thời kỳ mà có ít sự phân biệt giữa giai cấp thống trị và thượng lưu trong xã hội với người dân thường. Các nghệ sĩ diễn viên và khán giả cùng hoà nhập vào các điệu múa tưng bừng ở cuối mỗi buổi biểu diễn.
6. Nhân sâm ( 고려인삼 )
Nhân sâm được trồng rộng rãi ở Hàn Quốc vì điều kiện khí hậu đất đai ở đây rất thích hợp. Để phân biệt nhân sâm trồng tại Hàn Quốc với sản phẩm có xuất xứ khác trên thế giới, nhân sâm Hàn Quốc được đặt tên là “Goryeong Ginseng” theo tên triều đại Goryeo – triều đại đã hình thành tên Hàn Quốc trong tiếng Anh là Korea.
Nhân sâm được sử dụng như là liều thuốc tăng cường sinh lực và phục hồi sức khỏe. Người ta tin rằng nhân sâm giúp tăng cường chức năng của các của các cơ quan quan trọng trong cơ thể, ổn định tim, bảo vệ dạ dầy, tăng cường chịu đựng và sự ổn định của hệ thần kinh. Nhân sâm là một yếu tố cốt lõi trong Đông y, nhưng người Hàn Quốc thường dùng nhân sâm theo cách đơn giản hơn là uống trà hay rượu.
7. Đền Bulguksa ( 불국사 ) và Seokguram Grotto ( 석굴암 )
Bulguksa, là một trong những ngôi Đền Phật giáo lớn nhất và đẹp nhất Hàn Quốc, nằm ở Gyeongju, trước đây là thủ phủ của vương quốc Silla (57 trước CN -935 sau CN). Bulguksa ban đầu là một ngôi đền nhỏ mà nhà vua Beop-heung (514 -540) triều đại Silla đầu tiên sùng tín Phật giáo, đã xây dựng để cầu mong phồn thịnh và an bình cho vương quốc của mình. Kiến trúc hiện nay của ngôi đền có từ năm 751 khi nó được được xây dựng lại.
Trước kia, đền gồm có 80 toà nhà, nhiều gấp mười lần số lượng còn lại cho tới bây giờ. Đền nằm trên núi cao, phía sau lưng là Seokguram, động bằng đá nhân tạo được biết đến như là một trong những động đẹp nhất của đạo Phật. Seokguram bao gồm một tiền sảnh hình chữ nhật, và một lễ đường hình tròn với vòm trần nối liền với hành lang cũng xây theo hình chữ nhật. Seokguram và Bulguksa đã được đưa vào danh sách Di sản văn hoá thế giới của UNESCO từ năm 1995
8. Núi Seoraksan ( 설악산 )
Bán đảo Triều Tiên có hai ngọn núi đẹp là núi Seoraksan ở Hàn Quốc và núi Geumgangsan ở CHDCND Triều Tiên. Seoraksan là rặng núi kéo dài theo hướng nam của núi Geumgangsan, thường được biết đến với tên gọi núi Kim Cương thuộc CHDCND Triều Tiên.
Rừng của núi Seoraksan với đỉnh cao nhất là 1708 mét so với mực nước biển, là khu rừng hỗn hợp gồm các loại cây tán rộng với nhiều loại cây xuất xứ từ vùng núi Alpơ và những cây quả hình nón, là nơi cư trú của 939 loài thực vật và 25 loài thú, 90 loài chim, 11 loài bò sát, 9 loài động vật lưỡng cực, 360 loài côn trùng và 40 loài cá nước ngọt.
9. Nghệ thuật Hàn Quốc ( 세계적인 예술인 )
Nghệ sĩ violin Sarah Chang và Nghệ sĩ Soprano Jo Su Mi
Người Hàn Quốc thể hiện tài năng của mình trong lĩnh vực âm nhạc và nghệ thuật. Nghệ sĩ violin Sarah Chang đã ra album đầu tiên khi mới chín tuổi. Một nghệ sĩ violin nổi danh khác người Hàn Quốc là Chung Kyung-wha đang giữ danh hiệu một trong những nhạc sĩ đang được chào đón nhất trên sàn diễn quốc tế trong suốt 25 năm nay. Nghệ sĩ Soprano Jo Su-mi được chỉ huy dàn nhạc tài ba Herbert von Karajan phát hiện và theo nhận định của chỉ huy dàn nhạc Herbert thì chị có giọng hát “trời cho”.
Nhiều người hẳn sẽ ngạc nhiên vì Paik Nam-june, người gốc Hàn Quốc, được mệnh danh là “cha đẻ của nghệ thuật video”, đã bắt đầu sự nghiệp với tư cách là nhạc sĩ và nhà soạn nhạc. Năm 1963, ông trở thành người đầu tiên triển lãm thiết bị truyền hình. Kể từ đó, Paik đã có ảnh hưởng với nghệ thuật đương đại, video và truyền hình qua những tác phẩm nối liền thế giới nghệ thuật, báo chí, công nghệ, văn hoá nhạc pop và những thể loại nghệ thuật mới.
10. Di sản in
Nghệ thuật in trên phiến gỗ bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 ở Hàn Quốc. Bộ chữ in kim loại đầu tiên của thế giới được người Hàn Quốc phát triển trước phát minh của Gutenberg (Đức) hơn 200 năm.Thường dân triều đại Goryeo (918-1392) đã làm ra Bộ kinh Phật Koreana từ thế kỷ 13, và được công nhận là bản khắc gỗ kinh Phật còn tồn tại lâu đời nhất. Bộ kinh Phật Koreana đã được xếp vào di sản văn hóa của UNESCO năm 1995.
11. Nhạc cụ truyền thống
Đàn 12 dây Gayageum
Có khoảng 60 nhạc cụ truyền thống của người Hàn Quốc đã được truyền lại qua nhiều thế hệ. Bao gồm loại đàn 12 dây “gayageum” ( 가야금 ) và đàn 6 dây “geomungo” ( 거문고 ), cả hai loại nhạc cụ này đều được xác định là xuất hiện từ thế kỷ thứ 6.
Đàn 6 dây Geomungo
Nhạc cụ truyền thống Hàn Quốc được chia ra thành ba nhóm đàn dây, đàn gió và bộ gõ. Đoàn nghệ thuật tứ tấu Samullori Kim Duk-soo rất nổi tiếng trong và ngoài nước vì sự sáng tạo trong kết hợp giai điệu truyền thống và hiện đại tạo nên một thể loại nhạc rất độc đáo.
Các loại đàn dây truyền thống và bộ gõ gồm kkwaenggwari (chiêng nhỏ), jing (chiêng lớn hơn kkwaenggwari), Janggu (trống có hình đồng hồ cát), và buk (trống).
12. Dangcheong: Hình trang trí trên các tòa nhà
Dangcheong là hình trang trí màu sắc theo kiểu Hàn Quốc trên nóc các tòa nhà và những hình trang trí thể hiện vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật đích thực. Dangcheong gồm có năm màu: đỏ, xanh, vàng, đen và trắng. Bên cạnh chức năng trang trí, dangcheong còn được dùng vào nhữngmục đích thực tế.
Dangcheong được dùng để bảo vệ bề mặt tòa nhà và che đi những vết thô ráp trong chất liệu được sử dụng, đồng thời nhấn mạnh đặc điểm và thể hiện phẩm cấp của tòa nhà hay đối tượng nào đó. Dancheong có ở hầu hết mọi tòa nhà truyền thống, bao gồm cả đền chùa bất kể chúng nằm ở Seoul hay các tỉnh khác.
13. Hoa văn
Các hoa văn họa tiết thường bắt nguồn từ những chữ viết cổ. Ban đầu chúng là công cụ để thể hiện những nhu cầu tình cảm về môi trường xung quanh con người, sau đó được phát triển thành một hình mẫu trang trí nghệ thuật.
Trong số các hoa văn thường thấy được sử dụng một cách truyền thống ở Hàn Quốc có hình con rồng và con phượng hoàng, và “taegeuk” ( 태극 ) dùng trong quốc kỳ Hàn Quốc Taegeuki, gồm có hai hình đối lập tượng trưng cho âm và dương, tượng trưng cho hai sức mạnh của vũ trụ, cho tĩnh và động, cho thế yếu và thế mạnh, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ. Ngoài ra còn có những họa tiết tượng trưng cho sự trường tồn, như đá, núi, nước, mây, cây thông, con rùa, con hươu, con sếu, và mặt trời.
14. Jasu- Nghệ thuật thêu
Thêu được thực hiện trên vật liệu vải và các đồ trang trí như bình phong gấp. Thêu cũng được dùng để trang trí nhiều vật phẩm trong nhà, nhà gối, bao kính, rèm và túi đựng thuốc lá, thìa và đũa, bàn chải.
Thời xa, thường dân không được mặc vải có hình thêu, trừ các bộ lễ phục mặc vào ngày thành hôn. Không giống như nghệ thuật thêu phục vụ mục đích trang trí đơn thuần, Jaju Phật giáo trang trí đền chùa, tượng, chỉ dành riêng cho tôn giáo
15. Bojagi – Vải bọc
Bojagi là mảnh vải hình vuông có viền xung quanh với các kích cỡ, màu sắc, họa tiết trang trí khác nhau, người Hàn Quốc thường dùng để bọc, gói các đồ vật. Bojagi ngày nay vẫn được sử dụng tuy không phổ biến bằng trước đây. Mặc dù vậy chúng vẫn được làm để phục vụ cuộc sống thường nhật, bojagi làm tăng tính độc đáo và kiểu cách của các nghi lễ.
Thẩm mỹ của dân tộc Hàn Quốc được đặc biệt phản ánh rõ nét qua những mảnh bojagi được bàn tay các bà nội trợ chắp lại với nhau để tiết kiệm những mảnh vải thừa, vải vụn. Các hình thêu và các họa tiết khác làm cho bojagi thêm duyên dáng . Khi không sử dụng, có thể gấp bojagi giống như một chiếc khăn mùi xoa nhỏ.
16. Nghệ thuật gấp giấy thủ công
Người Hàn Quốc có truyền thống lâu đời trong nghệ thuật gấp giấy thủ công và cũng đã từ lâu sử dụng những loại giấy chất lượng tốt để gấp nên những chiếc hộp, chiếc bát có nắp đậy, những chiếc bát lớn, giỏ, túi lưới, bình và gạt tàn.
Những sản phẩm giấy thủ công khác du khách tham quan thường gặp là đồ văn phòng phẩm, thảm chân, đệm, rèm, bao đựng ống tên, bát mài mực, hộp thuốc súng, giày dép, chậu rửa, ấm trà. Hầu hết các sản phẩm làm từ giấy đều được sơn bóng trên bề mặt làm tăng tính thẩm mỹ và độ bền đồng thười làm cho chúng có khả năng chống thấm. Loại sơn phủ thường được dùng là hỗn hợp nước quả hồng xanh và hồ gạo và dầu tía tô.
17. Tranh dân gian
Tranh dân gian gồm những tác phẩm mà thường dân Hàn Quốc thời xa thường dùng để trang trí nhà ở hoặc để thể hiện những mong ước của họ về đời sống hạnh phúc bền lâu. Không giống như những tác phẩm hội hoạ cổ điển cao sang thường tập trung mô tả phong cảnh, hoa và chim, tranh dân gian thường thể hiện những ý tưởng hài hước, đơn giản và ý nghĩ chất phác về cuộc sống bình dân và về thế giới.
Tranh dân gian là những sáng tác của các họa sĩ thuộc tầng lớp hạ lưu trong xã hội cũ,nhưng các bức tranh của họ lại được tất cả mọi giai cấp trong xã hội, từ hoàng gia và các đền thờ cho đến nông dân ở những làng quê hẻo lánh trưng bày. Các tác phẩm tranh dân gian thường pha trộn táo bạo, thể hiện phongcách riêng của người hoạ sĩ và sử dụng những gam màu mạnh.
18. Sesi – Tập quán truyền thống
“Sebae” is practised even in preschools to the eldest persons and kids get sweets in return for bowing.
Tập quán Sesi bao gồm các nghi lễ được cử hành vào các thời điểm giao mùa trong năm và ngày tết Nguyên Đán. Ví dụ, vào ngày tết năm mới, người Hàn Quốc cất bài vị tổ tiên và thực hiện các nghi lễ tưởng niệm với các món đồ ăn và uống. Sau nghi lễ này, có lễ “sebae” hay là quỳ lạy những người cao tuổi trong gia đình. Vào đêm ngày 15 tháng Giêng – ngày trăng tròn đầu tiên trong năm, gọi là “daeboreum”, một hình nộm làm bằng rơm sẽ được ném xuống sông.
Songpyeon là 1 loại bánh Teok, thường được làm vào dịp Chuseok (Lễ tạ ơn – Thanks giving day)
Nhiều nơi trong cả nước đã có tập tục này, nhưng việc chuẩn bị và thưởng thức các món ăn với những loại rau đa dạng theo mùa vẫn được thực hiện ở khắp nơi. Ngày 15-8 âm lịch là ngày lễ Chuseok, một dạng lễ tạ ơn Trời cho vụ mùa bội thu, trong ngày này, mọi người cũng thường đi thăm viếng mộ tổ tiên. Một trong những món ăn đặc biệt được chuẩn bị cho ngày lễ này là “songpyeon” ( 송편 ), bánh có hình trăng khuyết làm từ bột nếp trong có vừng, đậu xanh hạt dẻ và các loại ngũ cốc khác.
19. Các nghi lễ trưởng thành
Ở Hàn Quốc, những giai đoạn mà mỗi người phải trải qua trong cuộc đười và đánh dấu những thay đổi cơ bản thờng được gọi chung là “Gwanhongsangje” (Quan-Hôn-Tang-Tế), bao gồm lễ trưởng thành, lễ thành hôn, tang lễ, và tế lễ tổ tiên.
Lễ trưởng thành thường rất đơn giản. Các chàng trai trưởng thành cuộn mái tóc dài thành búi trên đỉnh đầu và được tặng một chiếc mũ truyền thống của dân tộc Hàn Quốc làm từ đuôi ngựa. Các cô gái trưởng thành tết tóc thành hai bím và cài vào tóc đồ trang sức được gọi là binyeo ( 비녀 ).
Lễ thành hôn được tổ chức tại gia đình cô dâu và vợ chồng mới cưới thường nghỉ hai hay ba ngày tại gia đình cô dâu trước khi trở về nhà chú rể.Tang lễ được cử hành theo nghi thức truyền thống Hàn Quốc rất cầu kỳ. Thời gian để tang kéo dài trong hai năm, sau hàng loạt các nghi lễ cầu khấn. Bên cạnh những nghi thức tang lễ cầu kỳ, người Hàn Quốc còn thực hiện nhiều nghi lễ thờ cúng khác liên quan giữa sự sống và cái chết.
20. Vườn cảnh
Những khái niệm cần thiết phía sau nghệ thuật vườn Hàn Quốc là làm cho khung cảnh khu vườn tự nhiên hơn cả chính bản thân nó lúc ban đầu. Trong nhiều trường hợp, nhiều khu vườn trông hoàn toàn giống như một tác phẩm của tự nhiên, đó là nỗ lực rất lớn của các nghệ sĩ. Một trong những cảnh quan được bảo tồn tốt nhất trong các khu vườn thượng uyển là hồ Anapji ( 안압지 ) ở Gyeongju, Gyeongsangbuk-do.
Và cũng không có gì có thể so sánh với vẻ đẹp của vườn thượng uyển của Cung điện Changdeokgung ở Seoul, rộng 300.000 m2 trên tổng diện tích 405.636 m2 diện tích cung điện. Khu vườn được bố trí nhiều vườn, sảnh, ao sen, cầu đá, bậc tam cấp, máng nước và những dòng suối nhỏ uốn lượn giữa khu rừng cây rậm rạp và tất cả những yếu tố khác của một khu vườn theo truyền thống Hàn Quốc.
Ngoài ra, người HQ còn tự hào về môn võ Taekwondo ( 태권도 )
Taekwondo là một môn thể thao được chính thức công nhận trên toàn thế giới bắt nguồn từ Hàn Quốc. Môn thể thao này ngày nay được ưa chuộng tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Taekwondo là môn thể thao vận dụng toàn bộ cơ thể, nhất là hai tay và chân. Nó không chỉ làm tăng cường thể lực của người chơi, mà còn góp phần rèn luyện tính cách thông qua rèn luyện cả về thể chất và tinh thần. Cùng với một loạt những kỳ thuật và nguyên tắc, môn thể thao Taekwondo được coi là một môn võ tự vệ.
Bằng chứng về sự xuất hiện của môn Taekwondo như một hoạt động tự vệ có hệ thống có thể được thấy trong các trò chơi mang tính nghin thức được trình diễn trong các lễ hội tôn giáo trong thời đại các quốc gia bộ lạc cổ đại. Trong các nghi lễ tôn giáo như Yeonggo và Dongmaeng (một loại lễ tạ ơn), và Mucheon (Điệu múa thiên đường), người Triều Tiên cổ đại đã thể hiện những động tác độc đáo để rèn luyện thể chất. Những động tác này chính là sự khởi đầu cho môn võ Taekwondo.
Với cơ sở xuất phát mang tính lịch sử, taekwondo (còn được gọi với cái tên cổ hơn là taekkyeon) đã trở thành biểu tượng cho võ thuật truyền thống của Hàn Quốc. Trong thời kỳ Ba vương quốc, taekkyeon là môn võ thuật bắt buộc của quân đội, môn võ thuật nhằm tăng cường sức mạnh phòng ngự và khả năng chiến đấu của quốc gia, đồng thời được huấn luyện tại Musadan (một tổ chức quân đội) đảm đương trọng trách phòng thủ quốc gia.